Truyền thông đại chúng với biến đổi khí hậu
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua công tác ứng phó với biến đổi khí hậu đạt được nhiều kết quả quan trọng, cụ thể là:
Về nhận thức: Việt Nam đã sớm tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto. Nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu được thực hiện. Qua đó, nhận thức của các ngành, các cấp về biến đổi khí hậu, về nguy cơ tác động của biến đổi khí hậu đã có chuyển biến tích cực.
Về thể chế, chính sách: Một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu đã được ban hành như Luật Đê điều, Luật Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, Pháp lệnh phòng chống lụt, bão... Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược tăng trưởng xanh đã được phê duyệt. Đã thành lập Ủy ban quốc gia về biến đổi khí hậu, hình thành đơn vị đầu mối ở Trung ương thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu.
Về triển khai thực hiện các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính: Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã được xây dựng, cập nhật và công bố. Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu được triển khai thực hiện và đã đạt được kết quả bước đầu. Đã triển khai nghiên cứu đánh giá được tác động của biến đổi khí hậu đến một số lĩnh vực, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch hành động ứng phó. Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai được nâng lên một bước; công tác phòng chống thiên tai đã được triển khai quán triệt theo phương châm "4 tại chỗ" (vật tư, phương tiện tại chỗ; chỉ huy tại chỗ; hậu cần tại chỗ; lực lượng tại chỗ). Việc nâng cao điều kiện phòng, chống thiên tai cho các khu dân cư tại các vùng có nguy cơ, vùng ngập lũ, vùng ven biển đã được quan tâm.
Tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng mới và tái tạo, các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được triển khai. Một số ngành và địa phương đã đạt được kết quả bước đầu trong các lĩnh vực này. Người dân và doanh nghiệp đã bắt đầu chủ động đầu tư khai thác thủy điện nhỏ, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, nhiên liệu sinh học phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Chương trình giảm mất rừng, suy thoái rừng nhằm giữ khả năng hấp thụ khí nhà kính của hệ sinh thái rừng được thực hiện với sự hỗ trợ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc và Chính phủ một số nước.
Công tác hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu đã không ngừng được đẩy mạnh. Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện các nghĩa vụ của nước thành viên Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto; có vai trò ngày càng tích cực và có trách nhiệm trong các diễn đàn, hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu. Nhờ đó, Việt Nam cũng đã huy động được các khoản tài trợ và vay ưu đãi quốc tế cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Kể từ năm 2010 đến nay, nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế cho biến đổi khí hậu đạt trên 500 triệu USD.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, một số hạn chế, yếu kém cũng đã bộc lộ trong quá trình ứng phó với biến đổi với khí hậu ở Việt Nam. Đó là:
Thứ nhất, hiểu biết, nhận thức về biến đổi khí hậu còn chung chung; nhận biết, nhận dạng về biến đổi khí hậu nhiều nơi chưa rõ; chưa đánh giá đầy đủ tác động của biến đổi khí hậu theo vùng, miền, lĩnh vực. Nhiều vấn đề mới chưa được cập nhật, chậm so với nhận thức chung trên thế giới. Vẫn còn có những hoài nghi về biến đổi khí hậu và nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu mới chỉ được coi là nguy cơ mà chưa được xem là cơ hội để thúc đẩy phát triển theo hướng bền vững. Ứng phó với biến đổi khí hậu chỉ mới được quan tâm ở khía cạnh phòng chống thiên tai, mà chưa nhận thức được cần chủ động thích ứng, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Nhận thức về sự cần thiết phải lồng ghép biến đổi khí hậu, phối hợp liên ngành, liên vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu mới bước đầu được hình thành, chưa có hệ thống và thiếu đồng bộ. Các quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính còn phân tán; các quy định về thích ứng chủ yếu về phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Phần lớn quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, lĩnh vực, địa phương chưa được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của biến đổi khí hậu. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước mới được thiết lập ở Trung ương với đội ngũ cán bộ còn mỏng, chưa đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ. Nguồn lực đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ so với nhu cầu. Công tác nghiên cứu khoa học cơ bản về biến đổi khí hậu còn yếu.
Thứ ba, năng lực cảnh báo, dự báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Kịch bản biến đổi khí hậu chưa được cụ thể hoá cho từng giai đoạn, nhất là giai đoạn đến năm 2020 và 2050.
Công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai vẫn chủ yếu tập trung vào ứng phó và khắc phục hậu qua,ã mà chưa chú trọng đúng mức đến chủ động phòng ngừa. Các hoạt động phòng chống thiên tai còn thiếu tính chuyên nghiệp, năng lực cứu hộ, cứu nạn còn hạn chế. Chỉ tính trong 15 năm trở lại đây, thiên tai đã làm chết và mất tích hơn 10 nghìn người, thiệt hại về tài sản ước tính lên đến 1,5% GDP/năm.
Các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính chưa được đẩy mạnh đúng mức. Phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP còn ở mức cao (khoảng hơn 2 tấn CO2 tương đương / 1.000 USD). Năng lượng sạch, năng lượng tái tạo vẫn chưa được phát triển, sử dụng tương xứng với tiềm năng. Mức tiêu hao năng lượng trên đơn vị GDP còn cao hơn các nước trong khu vực.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, cụ thể là:
Về khách quan: Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài, nằm trong vùng ảnh hưởng của bão từ Thái Bình Dương, nhiều khu vực địa hình thấp nên dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng và thiên tai cực đoan.
Về chủ quan: Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền chưa đầy đủ, chưa thống nhất về biến đổi khí hậu; pháp luật, chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu còn yếu, vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được quan tâm để đưa vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các bộ, ngành, địa phương. Công tác tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp, bố trí cán bộ và nguồn lực còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu; sự phối hợp giữa các cơ quan, địa phương thiếu chặt chẽ, nhất là sự phối hợp liên ngành, liên vùng. Chưa làm rõ trách nhiệm, phát huy vai trò, huy động được sự tham gia đầy đủ, toàn diện của các tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân, cũng như sự giám sát của toàn xã hội.
Xu thế biến đổi khí hậu và thách thức với Việt Nam
Do quá trình đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhiều lúc lâm vào bế tắc do có sự khác biệt lớn về quan điểm của nước phát triển và đang phát triển về các mục tiêu cắt giảm phát thải khí nhà kính gây biến đổi khí hậu. Nghị định thư Kyoto là văn bản pháp lý cao nhất, quy định nghĩa vụ cắt giảm phát thải khí nhà kính đối với các nước phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện giai đoạn cam kết lần thứ nhất 2008-2012, một số nước phát thải lớn như Hoa Kỳ không tham gia và phê chuẩn, trong khi các nước như Trung Quốc, Ấn Độ chưa có nghĩa vụ cắt giảm. Hiện nay, giai đoạn cam kết lần thứ nhất đã kết thúc. Giai đoạn cam kết lần thứ hai bắt đầu từ năm 2013 - 2020. Tuy nhiên, Canada đã rút ra khỏi Nghị định thư, Nhật Bản cũng tuyên bố không tham gia giai đoạn cam kết lần thứ hai. Do đó, biến đổi khí hậu có thể sẽ tiếp tục diễn ra khốc liệt hơn trên phạm vi toàn cầu và ảnh hưởng tiêu cực đến Việt Nam.
Theo các kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ trung bình năm ở nước ta tăng khoảng 2 - 3 C, tổng lượng mưa/năm và lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô lại giảm, mực nước biển có thể dâng khoảng từ 75cm đến 1m so với trung bình thời kỳ 1980-1999. Nếu mực nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập, trong đó, thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10-12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP.
Biến đổi khí hậu làm gia tăng tần suất và cường độ thiên tai như bão, lũ lụt, mưa lớn, tố lốc, đe dọa thường xuyên, trước mắt và lâu dài đối với tất cả các lĩnh vực, các vùng và các cộng đồng. Trong những năm qua, thiên tai gây ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, các cơ sở hạ tầng về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quốc phòng, tác động xấu đến môi trường. Tính trong 15 năm gần đây (1996 - 2011), thiên tai ở Việt Nam đã gây thiệt hại đáng kể về người và tài sản, đã làm chết và mất tích hơn 10.711 người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5% GDP/năm. Những vùng, khu vực được dự tính chịu tác động lớn nhất của các hiện tượng khí hậu cực đoan nói trên là dải ven biển Trung Bộ, vùng núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ, vùng đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu trong thời gian tới
Việc ứng phó với biến đổi khí hậu phải được được thực hiện dựa trên các quan điểm sau:
Một là, ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn, là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân và cộng đồng, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội.
Hai là, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phải trên cơ sở tiếp cận phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng; vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản; vừa toàn diện nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, bước đi phù hợp trong từng giai đoạn phát triển; với phương châm dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
Ba là, biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại trong thế kỷ XXI; việc ứng phó phải đặt trong mối quan hệ toàn cầu và coi ứng phó không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững; phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng chống thiên tai là trọng tâm.
Để chủ động trong thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới nền kinh tế xanh, Việt Nam cần triển khai các giải pháp, cụ thể như sau:
Thứ nhất, xây dựng năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động trong phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, trong đó tập trung:
- Xây dựng và phát triển năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, cảnh báo, dự báo báo thiên tai đạt trình độ tương đương nhóm các nước dẫn đầu trong khu vực Đông Nam Á. Mở rộng, phát triển, hiện đại hóa hệ thống quan trắc và dự báo khí tượng thủy văn theo hướng kết hợp quan trắc, dự báo khí tượng thủy văn với giám sát, cảnh báo khí hậu.
- Định hướng chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, mùa vụ sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường kiến thức, nâng cao năng lực thích ứng, đảm bảo sinh kế cho người dân tại những vùng có nguy cơ bị tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu.
- Chủ động chuẩn bị các phương án, điều kiện phòng chống và giảm nhẹ thiên tai phù hợp với từng ngành, lĩnh vực và vùng, miền, nhất là các vùng dễ bị tổn thương do thiên tai như vùng ven biển, vùng núi cao. Xây dựng ý thức thường trực phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai của các cấp, các ngành và mọi người dân, đặc biệt là ở các vùng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, nhất là vùng ven biển. Tăng cường năng lực và sự tham gia của cộng đồng, chú trọng các kinh nghiệm ứng phó tại chỗ, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng ở cơ sở; phát triển, nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm truyền thống trong thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Thực hiện chương trình nâng cấp, bảo đảm an toàn các hồ chứa trong bối cảnh biến đổi khí hậu; nghiên cứu xây mới, nâng cấp cống ngăn mặn, giữ ngọt ở các cửa sông, đê biển các vùng trọng yếu; thúc đẩy các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên hệ sinh thái; phục hồi, đẩy mạnh trồng rừng ngập mặn ven biển, rừng phòng hộ đầu nguồn.
- Xây dựng và thực hiện chương trình bảo vệ không gian thoát lũ trên các lưu vực sông, lòng sông, trước hết cho sông Hồng, sông Cửu Long và các sông lớn khác.
Thứ hai, đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống, hạn chế, khắc phục triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng, trong đó ưu tiên:
- Xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt do nước biển dâng theo các kịch bản biến đổi khí hậu đến cấp xã, công bố công khai, phổ biến, gắn với hệ thống thông tin địa lý, thông tin viễn thám.
- Rà soát, bổ sung, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và địa phương bảo đảm phù hợp với kịch bản nước biển dâng.
- Rà soát, điều chỉnh, quy hoạch bố trí các khu dân cư vùng ven biển, nhất là các vùng đất thấp có nguy cơ bị ngập lụt do nước biển dâng phù hợp với kịch bản biến đổi khí hậu.
Thứ ba, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ, phát triển các hệ sinh thái tự nhiên nhằm tăng cường khả năng hấp thụ khí nhà kính, trong đó:
- Thúc đẩy thực hiện các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính theo cam kết quốc tế và phù hợp với điều kiện quốc gia, chú trọng vào một số ngành, lĩnh vực như: sử dụng đất, nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông, đô thị và quản lý chất thải. Xây dựng hệ thống kiểm kê khí nhà kính cấp quốc gia; bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách cho kiểm kê khí nhà kính định kỳ; xây dựng kịch bản phát thải cơ sở đến năm 2020 cho các lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, quản lý sử dụng đất và chất thải. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết và xác định các cơ sở pháp lý để tiến tới việc hình thành, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước và thúc đẩy tham gia thị trường các-bon toàn cầu.
- Đẩy mạnh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về tiết kiệm năng lượng. Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng các-bon thấp, tái cấu trúc các ngành kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu tốn ít năng lượng; từng bước hạn chế phát triển các nhóm ngành kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế thấp.
- Thực hiện các chương trình giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực chống mất rừng, suy thoái rừng và sinh kế cho cộng đồng. Đẩy mạnh các biện pháp kỹ thuật canh tác nông nghiệp bền vững nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp. Triển khai các quy hoạch, phương án, công nghệ quản lý, xử lý chất thải và tái sử dụng nước thải nhằm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Thu hút nguồn lực thực hiện thành công Chương trình hành động quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực giảm mất rừng và suy thoái và tham gia thị trường các-bon thế giới.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua lựa chọn cho mình con đường phát triển bền vững hơn phù hợp với điều kiện trong nước, cũng như để bắt kịp xu thế phát triển mới đã xuất hiện trên phạm vi toàn cầu, đó là nền kinh tế xanh, kinh tế các-bon thấp.
Chỉ có như vậy, Việt Nam mới tận dụng kịp thời các cơ hội từ hợp tác song phương và đa phương để tiếp nhận nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật, quản trị tiên tiến và coi đây là nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để từng bước thực hiện mục tiêu chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu đối với sự phát triển bền vững của đất nước, dân tộc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng rất quan tâm vấn đề này cùng với việc đẩy mạnh quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và sẽ có chỉ đạo thống nhất về ba vấn đề mang tính thời đại, mang tính chính trị, kinh tế, xã hội, quốc tế sâu sắc này./
Nguồn: http://www.tuyengiao.vn